Trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền hỗ trợ người lao động nghỉ việc, trong thời gian chưa tìm được việc làm mới. Vậy khi chúng ta đã có được việc làm mới, nhưng vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp, thì chúng ta có vi phạm pháp luật không ? Hôm nay, Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về vấn đề này nhé.
ĐIỀU KIỆN HƯỞNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP
Trợ cấp thất nghiệp: Là khoản tiền cơ quan Bảo hiểm xã hội chi trả cho người lao động sau khi người lao động chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật:
Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Chấm dứt hợp đồng lao động, hoặc hợp đồng làm việc đúng quy định.
- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24 tháng đối với hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định hoặc không xác định thời hạn hoặc đủ 12 tháng trong vòng 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng có thời hạn từ 03 tháng đến dưới 12 tháng.
- Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp trong vòng 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động.
- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Trợ cấp thất nghiệp giúp cho rất nhiều người lao động vượt qua thời điểm khó khăn khi chưa tìm được việc làm phù hợp. Tuy nhiên, khi đã có việc làm mới, nhiều người lao động vì không muốn bị cắt nguồn trợ cấp này, nên không thông báo đến Trung tâm dịch vụ việc làm, mà không biết rằng việc làm này khi bị phát giác, thì bị những rủi ro gì !
NHẬN TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP KHÔNG VI PHẠM PHÁP LUẬT.
Khi có việc làm nhưng vẫn nhận trợ cấp thất nghiệp từ cơ quan Bảo hiểm xã hội, thì có gọi là vi phạm pháp luật hay không ?
Nhiều người lao động nghĩ rằng, khi có việc làm không thông báo, hoặc thông báo muộn vài tháng để được tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp, thì không sao. Tuy nhiên, việc này rất dễ bị phát hiện. Lý do là tại nơi làm việc mới, người lao động sẽ phải khai báo thông tin cá nhân, và làm hồ sơ Bảo hiểm xã hội. Thông tin cá nhân của người lao động sẽ được chuyển đến cơ quan Bảo hiểm xã hội, khi tiến hành kiểm tra các bộ hồ sơ, sẽ rất dễ dàng thấy được sai phạm.
Hành vi lách luật để hưởng bảo hiểm thất nghiệp nếu bị phát hiện, người lao động sẽ phải đối mặt với các rủi ro sau:
- Một là, phải hoàn trả tiền Trợ cấp thất nghiệp tương ứng với các tháng đã có việc làm, mà vẫn nhận tiền trợ cấp.
- Hai là, rủi ro với người lao động là việc không được bảo lưu thời gian đóng Bảo hiểm thất nghiệp chưa được hưởng.
- Ba là, ngoài việc phải trả lại tiền và mất quyền lợi bảo lưu, người lao động có việc làm mà vẫn cố tình lách luật để nhận trợ cấp thất nghiệp còn bị phạt vi phạm hành chính từ 1 đến 2 triệu đồng, theo quy định điều 40 tại Nghị Định số 12 năm 2022.
Tóm lại: Không phân biệt gian lận hay sai sót.
- Khi người lao động đang hưởng trợ cấp mà có việc làm, đồng thời thông báo cho trung tâm dịch vụ việc làm, thì người lao động chỉ bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, nhưng bù lại người lao động được bảo lưu thời gian đóng tương ứng với số tháng còn lại, mà người lao động chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp đó.
- Người lao động, khi có việc làm, mà không thông báo cho trung tâm dịch vụ việc làm biết và bị phát hiện, thì người lao không được bảo lưu thời gian đóng tương ứng với số tháng còn lại chưa hưởng trước đó. Đồng thời, bị phạt tiền và phải hoàn trả tiền Bảo hiểm thất nghiệp nhận sai, nhưng vẫn sẽ “mất trắng” thời gian đóng trước đó.